LÝ THUYẾT CƠ BẢN
I/- Nguyên âm, phụ âm và dấu :
1. Nguyên âm và phụ âm :
Tiếng Việt gồm có 10 nguyên âm (a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y), 2 bán nguyên âm (ă, â), 16 phụ âm đơn (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, r, s, t, v, x), 9 phụ âm kép (ch, gi, kh, ng, nh, ph, qu, th, tr) không kể các phụ âm gh, ngh vì chữ h thêm vào chỉ có hình thức mà không đọc.
2. Dấu:
Trong tiếng Việt có: không dấu, huyền (`), sắc (‘), nặng (.), hỏi (?), ngã (~).
II/- Âm :
Âm là gốc của một chữ sau khi bỏ các phụ âm ở đầu chữ và các dấu, được cấu tạo bởi 1 hoặc nhiều chữ cái, bắt đầu bằng một hay nhiều nguyên âm và có thể kết thúc bằng một hay nhiều phụ âm.
Ví dụ :
- Ta, Là, Má, Hạ, Cả, Xã : các chữ này đều mang âm “a” nhưng khác phụ âm đầu và dấu.
- Vương, Trường, Hướng, Lượng, Tưởng, Dưỡng : đều cùng âm “ương” nhưng khác phụ âm đầu và dấu.
III/- Thanh :
Thanh là sự khác nhau trong cách phát âm, cũng là sự khác nhau trong độ cao thấp của một âm.
Thanh được chia thành 2 nhóm : Bằng và Trắc.
1. Bằng: Gồm các chữ không dấu hoặc có dấu huyền
- Phù bình thanh : các chữ không dấu, ví dụ: anh luôn yêu em.
- Trầm bình thanh : các chữ có dấu huyền, ví dụ: đời người buồn nhiều.
2. Trắc : Gồm các chữ có dấu sắc, nặng, hỏi ngã
- Trầm thượng thanh : các chữ có dấu hỏi, ví dụ: giả sử tưởng.
- Phù thượng thanh : các chữ có dấu ngã, ví dụ: sẽ vẫn mãi.
- Trầm khứ thanh : các chữ có dấu nặng, ví dụ: hẹn đợi mộng.
- Trầm nhập thanh: các chữ có dấu nặng mà tận cùng là phụ âm c, ch, p, t. Ví dụ: mật cực ngọt.
- Phù khứ thanh : các chữ có dấu sắc, ví dụ: cứ nhớ đấy.
- Phù nhập thanh: các chữ có dấu sắc mà tận cùng là phụ âm c, ch, p, t. Ví dụ: sắp hết thích.
Nôm na có thể hiểu: các dấu huyền, nặng, hỏi là thanh “trầm”, còn không dấu, dấu sắc và ngã là thanh “bổng”. Trong mỗi câu, ta nên sắp xếp phân bổ các thanh trầm bổng để tạo âm điệu du dương cho bài thơ.
Ví dụ một vài trường hợp các thanh xếp từ thấp đến cao :
- nhạc, nhạng, nhảng, nhàng, nhang, nháng, nhãng, nhác
- thịch, thịnh, thỉnh, thình, thinh, thính, thĩnh, thích
- ngọt, ngọn, ngỏn, ngòn, ngon, ngón, ngõn, ngót
- sập, sậm, sẩm, sầm, sâm, sấm, sẫm, sấp
IV/- Vần (vận) :
Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các câu trong bài thơ với nhau. Thường vần được dùng để nối câu gieo vào chữ cuối cùng của câu thơ.
Những chữ được gọi là vần với nhau khi chúng có cùng âm và chung một nhóm thanh. Ví dụ :
- anh, đành, tranh, hành : vần với nhau.
- ánh, lạnh, bảnh, rãnh : vần với nhau.
Nhưng : anh và ánh thì không vần với nhau.
1. Chính vận : Chính vận là các chữ hoàn toàn có cùng âm và nhóm thanh.
Ví dụ: tình - xinh, lái - hại - trải - mãi ...
2. Thông vận : Thông vận (vần thông) là các chữ có âm đọc gần giống nhau nhưng viết khác nhau.
Ví dụ: hòa - ca, tình - thanh, đầy - tay, bật - tắt, lỗi - tủi ...
* Một số vần thông với nhau :
- Các chữ ă, â đi cùng phụ âm sau nó thì thông vần với nhau. Ví dụ: ăng - âng, ắt - ất ...
- Vần bằng :
a - ơ
e - ê - i
o - ô - u
ơ - ư
ai - ay - ây
ai - oi - ôi - ơi - ươi - ui
ao - eo - êu - iêu - iu - ưu
am - ơm
an - ơn
êm - im
on - un
ăn - ân - uân
en - in - iên - uyên
on - ôn - uôn
ang - ương
ăng - âng - ưng
anh - ênh - inh - oanh - uynh
ong - ông - ung
uông - ương
- Vần trắc :
é - ị
ổ - ũ
ọ - ủa
ỗ - ữa
ạc - ước
ạm - ợm
áo - iễu
ấc - ực
ật - ứt
ĩa - uệ
ít - uyết
ói - ủi
ỗi - ụi
út - uốt
óng – úng
V/ Gieo vần :
1. Cước vận (vần chân) : Cước vận là các vần nằm ở cuối câu, nghĩa là các chữ ở cuối câu vần với nhau. Đa số các thể thơ đều là cước vận.
2. Yêu vận (vần lưng) : Yêu vận là vần được gieo ở giữa câu, nghĩa là chữ cuối của câu trên vần với một chữ nằm ở giữa câu dưới, như thể thơ lục bát, song thất lục bát.
3. Các kiểu gieo vần thông dụng :
- Vần tiếp (liên vận) : chữ cuối của 2 câu liên tiếp vần với nhau và các cặp bằng trắc xen kẽ tiếp nhau. Ví dụ :
Bé làm cô giáo
Dạy chữ cho ba
Đọc nào chữ a
Ngoan cô cho kẹo
Đang dạy nhõng nhẽo
Đòi bế đi chơi
Yêu cô bằng trời
Muốn gì được nấy
- Vần chéo (cách vận) : chữ cuối 2 câu cách nhau có vần với nhau. Trong một khổ 4 câu, chữ cuối câu 1 vần với câu 3 và chữ cuối câu 2 vần với câu 4. Ví dụ :
Mưa ơi sao rơi mãi
Mẹ vẫn chưa về mà
Đường làng trơn bước ngại
Lắc lẻo cầu khó qua
(TN)
Hoặc chỉ cần chữ cuối câu 2 và câu 4 vần với nhau. Ví dụ :
Anh có hiểu vầng dương chưa tắt nắng
Mây đã buồn tím ngắt cuối trời xa
Lòng thổn thức bước chân sầu đơn lẻ
Chờ đợi anh góc phố buổi chiều tà
(TN)
- Vần ôm : trong 1 khổ thơ 4 câu, chữ cuối câu 1 vần với chữ cuối câu 4 và chữ cuối câu 2 vần với chữ cuối câu 3.
Ví dụ :
Những ngày chưa có anh
Tuổi hồn nhiên trong trắng
Như trời mơ ươm nắng
Lẫn trong ngàn mây xanh
(AT)
- Vần 3 tiếng : chữ cuối các câu 1, 2 và 4 của khổ thơ vần với nhau. Ví dụ :
Hiền lành đứng đắn lại bô trai
Giỏi chữ hay văn quả lắm tài
Bút trải vần tiên cài ngõ mận
Thơ lồng tiếng hạc giắt đường mai
THƠ LỤC BÁT
Nói đến thơ Lục Bát là nói đến một sản phẩm văn hoá tinh thần độc đáo của dân tộc Việt. Hầu hết những người làm thơ đều đã ít nhất một lần làm thơ Lục Bát. Đã có nhiều tác giả trở thành nổi tiếng với những tác phẩm thơ lục bát mà tiêu biểu nhất là Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều, sau này có Nguyễn Bính, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn… cũng đã gặt hái được thành công từ thể thơ Lục Bát.
Thiết nghĩ tìm hiểu đôi điều về thể thơ Lục Bát cũng là điều cần thiết cho cả người làm thơ và công chúng yêu thơ.
1- Thơ Lục Bát là gì?
Thơ Lục Bát là thể văn vần mỗi cặp gồm một câu sáu tiếng và một câu tám tiếng liên tiếp nhau. Thông thường bài thơ mở đầu bằng câu sáu chữ và kết thúc bằng câu tám chữ.
Một bài thơ Lục Bát thường không bị giới hạn bởi số câu, có thể gồm hai câu nhưng cũng có thể kéo dài tới hàng ngàn câu như Truyện Kiều của Nguyễn Du với 3254 câu (1627 câu lục và 1627 câu bát).
2- Thơ Lục Bát có tự bao giờ?
Người ta đã cất công đi tìm lời giải cho câu hỏi này. Song đáp án vẫn chỉ là những giả thuyết. Bởi Lục Bát xa xưa được lưu truyền tới ngày nay thông qua hình thức truyền miệng nên thật khó có được văn bản Lục Bát đầu tiên.
Nhưng có điều chắc chắn rằng: "Lục Bát là đứa con cưng của tiếng Việt, tiếng Việt đã nuôi lớn Lục Bát; đồng thời chính Lục Bát cũng đã góp phần làm cho tiếng Việt hay hơn, đẹp hơn".
3- Luật thanh trong thơ Lục Bát:
Cũng như thơ Đường luật, thơ Lục Bát tuân thủ quy tắc “nhất, tam, ngũ bất luận; tứ, nhị, lục phân minh”. Nghĩa là các tiếng 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ.
- Câu lục: theo thứ tự tiếng 2-4-6 là Bằng (B) – Trắc (T) – Bằng
- Câu bát: theo thứ tự tiếng 2-4-6-8 là B – T – B – B
Ví dụ 1:
Tôi nghe nẫu cả những chiều
B T B
Câu thơ ngã xuống đổ xiêu mái chùa.
B T B B
(Cuốc kêu – Đồng Đức Bốn)
Ví dụ 2:
Nắng chia nửa bãi chiều rồi
B T B
Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu.
B T B B
(Ngậm ngùi – Huy Cận)
Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên, còn câu bát lại theo thứ tự T - B - T - B những câu thơ như thế này người ta gọi là Lục Bát biến thể.
Ví dụ:
Có sáo thì sáo nước trong
T T B
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con.
T T B B
(Ca dao)
hay:
Con cò lặn lội bờ sông
B T B
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
T B T B
(Ca dao)
4- Cách gieo vần trong thơ Lục Bát:
* Về vần: Có hai loại vần là vần chính và vần thông.
- Vần chính còn gọi là “vần giầu” hoặc “vần sát” gồm những tiếng cùng một khuôn âm như “ao” với “sao”, “mờ” với “tơ”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét